Bộ Tài chính đang dự thảo sửa đổi một số điều của Nghị định số 63/2019/NĐ-CP của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí; dự trữ quốc gia và kho bạc nhà nước, đã được sửa đổi, bổ sung một số điều bởi Nghị định số 102/2021/NĐ-CP. Trong đó, điểm nhấn nằm ở lĩnh vực quản lý và sử dụng tài sản công với mục tiêu hoàn thiện khung pháp lý, tăng cường kiểm soát và bảo đảm tính minh bạch, hiệu quả trong quản lý nhà nước.
Nhiều tồn tại trong xử phạt vi phạm hành chính
Điều 8 Quy định số 189-QĐ/TW ngày 8/10/2024 của Bộ Chính trị về kiểm soát quyền lực, phòng chống tham nhũng, tiêu cực trong quản lý, sử dụng tài chính, tài sản công và Nghị định số 63/2019/NĐ-CP (Nghị định 63) đã chỉ rõ nhiều hành vi nhạy cảm trong lĩnh vực này như: lãnh đạo, chỉ đạo, tham mưu ban hành văn bản trái chủ trương; lợi dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản công; giao, cho thuê, sử dụng tài sản công vượt tiêu chuẩn, sai mục đích; sử dụng tài sản công vào hoạt động kinh doanh trái phép; hủy hoại, làm hư hỏng tài sản công; hoặc thiếu trách nhiệm trong quản lý, sử dụng tài sản công…
![]() |
| Bộ Tài chính đang dự thảo Nghị định của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định 63/2019/NĐ-CP, trong đó điểm nhấn là lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công. Ảnh minh họa. |
Ngoài ra, Nghị định 63 cũng quy định cụ thể trách nhiệm thi hành của các bộ, ngành, UBND các cấp, cơ quan chức năng của Nhà nước, tổ chức và cá nhân khi phát hiện hành vi vi phạm hành chính trong lĩnh vực quản lý, sử dụng tài sản công.
Theo Bộ Tài chính, việc triển khai thực hiện Nghị định 63 và Nghị định 102/2021/NĐ-CP đã đạt được nhiều kết quả tích cực, như góp phần nâng cao nhận thức về quản lý, sử dụng tài sản công; tăng cường công tác xử phạt, thu hồi các khoản vi phạm. Đáng chú ý, từ ngày 1/1/2023 đến 30/6/2024, đã có 63 vụ vi phạm trong lĩnh vực này bị xử lý, thu ngân sách khoảng 459 triệu đồng cùng với hơn 8,6 tỷ đồng lợi bất hợp pháp bị thu hồi.
| Việc sửa đổi Nghị định 63 không chỉ nhằm đồng bộ hóa hệ thống pháp luật, mà còn đặt ra yêu cầu mới về minh bạch, trách nhiệm và hiệu quả trong quản lý tài sản công. Khi các quy định được hoàn thiện, các cơ quan, tổ chức sẽ có căn cứ pháp lý rõ ràng hơn để phòng ngừa và xử lý vi phạm, từ việc mua sắm, giao tài sản, khai thác, sử dụng sai mục đích cho tới bảo dưỡng, sửa chữa, xử lý tài sản. |
Tuy nhiên, cũng theo Bộ Tài chính, quá trình thực hiện Nghị định 63 đã bộc lộ một số bất cập. Một số nội dung trong Nghị định 63 không còn phù hợp với các quy định pháp luật mới như Luật Đấu thầu năm 2024; Luật Quản lý, sử dụng tài sản công (đã được sửa đổi, bổ sung tại Luật số 56/2024/QH15 và Luật số 90/2025/QH15); Nghị định số 24/2024/NĐ-CP ngày 27/02/2024; và Nghị định số 186/2025/NĐ-CP ngày 1/7/2025 của Chính phủ. Những điểm chưa phù hợp chủ yếu liên quan đến quy định về mua sắm, giao, chuyển giao, khai thác tài sản công, tài sản kết cấu hạ tầng; đăng nhập và sử dụng số liệu về tài sản công; cũng như xử lý tài sản được xác lập quyền sở hữu toàn dân.
Về thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính, một số chức danh quy định tại Nghị định 63 không còn phù hợp với Luật Xử lý vi phạm hành chính năm 2020 và các văn bản sửa đổi, bổ sung sau này như Luật số 88/2025/QH15, Luật Thanh tra năm 2025 và Nghị định số 189/2025/NĐ-CP. Bộ Tài chính cho biết, theo quy định mới, thẩm quyền xử phạt vi phạm hành chính được phân định rõ cho chủ tịch UBND các cấp; thủ trưởng các tổ chức thuộc bộ, cơ quan ngang bộ; thủ trưởng cơ quan chuyên môn thuộc UBND cấp tỉnh; cũng như trưởng đoàn kiểm tra của bộ, cơ quan ngang bộ trong thời hạn kiểm tra.
Bên cạnh đó, việc quy định “giá trị tài sản” làm căn cứ xác định mức phạt tại Nghị định 63 hiện chưa rõ ràng, chưa thống nhất về việc xác định theo nguyên giá, giá trị còn lại hay giá trị đánh giá lại, gây khó khăn trong việc xác định thẩm quyền xử phạt và khung tiền phạt. Đồng thời, Nghị định này cũng chưa quy định nguyên tắc và phương pháp xác định “số lợi bất hợp pháp” do hành vi vi phạm hành chính gây ra - yếu tố quan trọng để buộc đối tượng vi phạm nộp lại theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính.
Điều chỉnh mức phạt và bổ sung biện pháp khắc phục
Những điểm sửa đổi chủ yếu trong dự thảo Nghị định lần này tập trung vào việc cụ thể hóa hành vi vi phạm, điều chỉnh mức phạt và bổ sung biện pháp khắc phục hậu quả nhằm tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước và phòng ngừa thất thoát, lãng phí. Theo đó, các hành vi vi phạm trong mua sắm tài sản công bị xử phạt từ 2 triệu đồng đến 20 triệu đồng tùy giá trị phần vượt tiêu chuẩn, định mức. Người vi phạm phải nộp lại số tiền tương ứng với giá trị vượt quy định, được xác định theo từng lần mua sắm hoặc giá trị tài sản vượt.
Các hành vi giao, tiếp nhận hoặc sử dụng tài sản công sai quy định như kê khai không đúng, sử dụng tài sản công vào mục đích cá nhân, sử dụng xe ô tô công vượt tiêu chuẩn, dùng trụ sở làm nhà ở hoặc kinh doanh trái phép bị xử phạt từ 1 triệu đồng đến 20 triệu đồng và buộc khôi phục tình trạng ban đầu hoặc hoàn trả giá trị tài sản bị hư hỏng, thất thoát. Hành vi tặng cho hoặc khai thác tài sản công khi chưa được cơ quan có thẩm quyền cho phép bị xử phạt từ 5 triệu đồng đến 50 triệu đồng, đồng thời phải hoàn trả tài sản hoặc nộp lại toàn bộ số lợi bất hợp pháp thu được.
Phạt tiền từ 1 triệu đồng đến 5 triệu đồng đối với hành vi khai thác tài sản công khi chưa được cơ quan, người có thẩm quyền ban hành quyết định khai thác theo quy định và buộc hoàn trả lại tài sản. Trường hợp tài sản đã bị thay đổi, phải khôi phục lại tình trạng trước khi xảy ra vi phạm...
Ngoài ra, các hành vi khác như thành lập hội đồng thẩm định giá, xác định giá, đấu giá tài sản công sai thẩm quyền; chậm đề xuất phương án xử lý; không bàn giao hoặc không tiếp nhận tài sản theo quy định cũng bị xử phạt từ 1 triệu đồng đến 20 triệu đồng, kèm theo biện pháp buộc hoàn trả, khôi phục tài sản hoặc nộp lại số lợi bất hợp pháp…
Những sửa đổi, bổ sung này thể hiện rõ định hướng hoàn thiện khung pháp lý, tăng tính răn đe và minh bạch trong quản lý, sử dụng tài sản công, góp phần bảo đảm việc thực thi đúng quy định, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực nhà nước và ngăn ngừa tình trạng thất thoát, lãng phí.



